Bắt giữ kẻ đánh người, gây thương tích do thấy ở cùng vợ mình trong lán Bảo Lâm | 27/09/2022 - 10:23 Đắk Nông- Phát hiện vợ mình cùng người đàn ông khác trong một lán trại, Lữ Văn Huỳnh, ở xã Ea Pô, huyện Cư Jút đã ghen tuông và có dùng hung khí đánh người đàn ông nghi là tình địch, gây thương tích đến 20%. Tuy nhiên, tội Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (sau đây gọi gọn là tội Cố ý gây thương tích) dẫn đến hậu quả chết người theo điểm a khoản 4 điều 134 Bộ luật Hình sự thì khung hình phạt từ 7 năm đến 14 năm tù. Người thực (BGĐT) - Công an huyện Việt Yên (Bắc Giang) vừa điều tra làm rõ vụ việc cố ý gây thương tích xảy ra tại tổ dân phố Dục Quang, thị trấn Bích Động. Today: 15/10/2022 16:34:37 (GMT+7) Email: toasoanbbg@gmail.com. Liên hệ tòa soạn: +84.0204.3 856 624 Khai mạc Giải Vô địch Bóng đá Sáng 19/8, thông tin từ Công an huyện Cẩm xuyên (Hà Tĩnh) cho biết đơn vị vừa ra quyết định khởi tố vụ án hình sự đối với Nguyễn Văn Hoàng (SN 1992, trú xã Cẩm Dương) về hành vi cố ý gây thương tích. Theo đó, vào khoảng 22h ngày 2/8, Nguyễn Văn Hoàng (SN 1992) và Đặng "1. Người nào vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%, thì bị phạt cảnh cáo, phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm: Với nguyên tắc trên thì người gây thiệt hại hoặc người bị thiệt hại có thể yêu cầu thay đổi mức bồi thường khi mức bồi thường không còn phù hợp với thực tế. Cụ thể là trong trường hợp mức bồi thường quá thấp gây bất lợi cho người bị thiệt hại để khắc phục hậu quả gây ra hoặc mức bồi thường quá cao làm ành hưởng lợi ích của người gây ra thiệt hại. eOFf. Dù không cố tình gây thương tích nhưng người vô ý làm người khác bị thương vẫn có thể bị phạt hành chính hoặc nặng hơn là truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp Thế nào là vô ý gây thương tích?Vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác được hiểu là hành vi vi phạm các quy tắc thông thường trong cuộc sống về đảm bảo an toàn tính mạng, sức khỏe của người khác do quá tự tin hoặc vì cẩu thả, đã làm cho người khác bị thương tích hoặc bị tổn hại sức vi vô ý gây thương tích thường có một trong các đặc điểm- Người thực hiện hành vi vi phạm tuy thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được vô ý do quá tự tin;- Hoặc người thực hiện vi phạm không thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó vô ý do cẩu thả.Nếu có các đặc điểm trên, dù không cố tình gây thương tích nhưng người vô ý làm người khác bị thương vẫn có thể bị phạt hành chính hoặc nặng hơn là truy cứu trách nhiệm hình ý gây thương tích nhưng vẫn bị phạt? Ảnh minh họa2. Vô ý gây thương tích bị phạt thế nào? Mức phạt hành chínhTheo Điều 7 Nghị định 144/2021/NĐ-CP, hành vi vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác được xếp vào một trong các hành vi vi phạm quy định về trật tự công đó, khoản 1 Điều 7 Nghị định 144 quy định1. Phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ đồng đến đồng đối với một trong những hành vi sau đây...d Vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác nhưng không bị truy cứu trách nhiệm hình sự;[...]Như vậy, nếu vô ý gây thương tích nhưng chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự, người thực hiện sẽ bị phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền đến ra, Điều 7 Nghị định 144 cũng quy định, người thực hiện vi phạm buộc phải chi trả toàn bộ chi phí khám bệnh, chữa bệnh đối với người bị hại để khắc phục hậu Truy cứu trách nhiệm hình sựCăn cứ Điều 138, 139 Bộ Luật hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung 2017, hành vi vô ý gây thương tích có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự khi gây tổn hại về sức khỏe cho người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% trở thể, Điều 138 quy định về Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác như sau1. Người nào vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%, thì bị phạt cảnh cáo, phạt tiền từ đồng đến đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 01 Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ từ 01 năm đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năma Đối với 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 31% đến 60%;b Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở Phạm tội đối với 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên, thì bị phạt cải tạo không giam giữ từ 02 năm đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 03 cứ quy định trên, nếu bị xử lý về Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác tại Điều 138, mức phạt nặng nhất có thể áp dụng với người phạm tội là phạt tù đến 03 hợp vô ý gây thương tích do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính, người thực hiện vi phạm sẽ không áp dụng mức phạt tại Điều 138 mà áp dụng quy định tại Điều 139 như sau1. Người nào vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%, thì bị phạt tiền từ đồng đến đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ từ 02 năm đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năma Đối với 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 31% đến 60%;b Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở Phạm tội đối với 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 05 Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 Điều 139 quy định về Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính, người phạm tội có thể bị phạt tù đến 05 năm, đồng thời áp dụng hình phạt bổ sung là cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định đến 05 đây là giải thích về vô ý gây thương tích là gì và trường hợp nào vô ý gây thương tích nhưng vẫn bị phạt theo quy định của pháp luật. Nếu cần hỗ trợ về các trường hợp cụ thể, bạn đọc vui lòng liên hệ để được tư vấn nhanh nhất.>> Cố ý gây thương tích là gì? Mức phạt với Tội cố ý gây thương tích Quy định về tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác? Điều 108. Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. 1. Người nào vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến hai năm. 2. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm. Định nghĩa Vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là hành vi của một người do cẩu thả mà không thấy trước được hành vi của mình có khả năng gây ra thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe của người khác có tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên, mặc phải thấy trước và có thể thấy trước hoặc tuy thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả đó, nhưng cho rằng hậu quả không xảy ra hoặc có thể ngăn chặn được. Điều 108 Bộ luật hình sự năm 1999 chỉ quy định một trường hợp phạm tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác và quy định thêm hình phạt bổ sung đối với tội này, còn trường hợp phạm tội do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính được quy định thành một tội danh riêng. Trừ hậu quả, còn tất cả các dấu hiệu khác của tội phạm đều tương tự như đối với tội vô ý làm chết người quy định tại Điều 98 Bộ luật hình sự. Hậu quả do hành vi vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác phải có tỷ lệ từ 31% trở lên thì người phạm tội mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Thương tích có thể gây ra cho một người hoặc có thể gây ra cho nhiều người, nhưng không có trường hợp dẫn đến chết người, nếu người bị hại bị thương dẫn đến chết người thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội vô ý làm chết người quy định tại Điều 98. Tuy nhiên thực tiễn xét xử cho thấy có trường hợp do vô ý làm chết một người và bị thương tích một người có tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên, thì việc truy cứu người phạm tội như thế nào, một tội hay hai tội? Nếu chỉ bị truy cứu về tội vô ý làm chết người, còn việc gây thương tích cho người khác với tỷ lệ thương tật là từ 31% trở lên chỉ là tình tiết khi quyết định hình phạt, thì bỏ lọt một hành vi phạm tội, còn nếu truy cứu người phạm tội hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác thì nguyên tắc một hành vi phạm tội lại bị xử lý hai lần. Mặc dù chưa có hướng dẫn cụ thể, nhưng thực tiễn xét xử và qua nghiên cứu hai tội phạm này thì trường hợp trên cần truy cứu người phạm tội về hai tội tội vô ý làm chết người và tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, mà không bị coi là vi phạm nguyên tắc một hành vi phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự hai lần, vì trong trường hợp này người phạm tội có hai hành vi phạm tội chứ không phải chỉ có một hành vi phạm tội mặc dù cả hai hành vi này đều được thực hiện cùng một lúc, cũng giống như một trường hợp một người dùng súng bắn chết một người khác nhưng đạn xuyên qua người mà người phạm tội định giết trúng vào người đứng gần đó mà người phạm tội không nhìn thấy cũng không có ý định bắn gây thương tích cho người này với tỷ lệ thương tật 45%. Hành vi trong trường hợp này tuy cùng được thực hiện một lúc nhưng lại bao gồm hai hành vi phạm tội khác nhau nên bị truy cứu về hai tội khác nhau. Phạm tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến hai năm. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm. Đây là quy định hoàn toàn mới so với Điều 110 Bộ luật hình sự năm 1985 và cũng là quy định nghiêm khắc hơn trường hợp phạm tội vô ý làm chết người quy định tại Điều 98 Bộ luật hình sự năm 1999. Qua thực tiễn xét xử, cũng như nghiên cứu quy định này, chúng ta thấy quy định hình phạt bổ sung đối với trường hợp phạm tội này là không hợp lý, hình phạt bổ sung này chỉ phù hợp với trường hợp vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính. Mặt khác, tội vô ý làm chết người quy định tại Điều 98 cũng không quy định các loại hình phạt bổ sung này và căn cứ để quy định các loại hình phạt bổ sung đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác cũng không có. Hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác đã được quy định tại Điều 134 Bộ luật hình sự được thực hiện do lỗi cố ý có thể là lỗi cố ý trực tiếp hoặc lỗi cố ý gián tiếp. Tuy nhiên trên thực tế, hành vi gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác còn có thể do lỗi vô ý gây ra. Đây là trường hợp có mức độ ít nguy hiểm hơn tội giết người với lỗi cố ý. Do đó, pháp luật đặt ra quy định riêng đối với trường hợp vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. 1. Căn cứ pháp lý Điều 138 Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 ngày 27/11/2015 ngày 27/11/2015 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự số 12/2017/QH14 ngày 26/06/2017 sau đây gọi tắt là Bộ luật Hình sự quy định Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác như sau “Điều 138. Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác 1. Người nào vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%, thì bị phạt cảnh cáo, phạt tiền từ đồng đến đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ từ 01 năm đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm a Đối với 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 31% đến 60%; b Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên. 3. Phạm tội đối với 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên, thì bị phạt cải tạo không giam giữ từ 02 năm đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 03 năm.” 2. Dấu hiệu pháp lý tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác Khách thể của tội phạm Hành vi phạm tội ở đây là hành vi gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác. Tức là quyền bất khả xâm phạm về thân thể, sức khỏe của con người đã bị xâm phạm trái phép. Do đó, khách thể của tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là quyền bất khả xâm phạm về thân thể, sức khỏe, quyền được nhà nước bảo hộ về thân thể, sức khỏe của con người. Mặt khách quan của tội phạm Hành vi phạm tội thuộc mặt khách quan của tội phạm thể hiện ở hành động do cẩu thả hoặc quá tự tin mà gây ra thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân. Người phạm tội phải có hành vi tác động đến thân thể của người khác làm cho người này bị thương, bị tổn hại đến sức khoẻ như đâm, chém, đấm đá, đốt cháy, đầu độc Hành vi này về hình thức cũng giống hành vi của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, nhưng tính chất và mức độ nguy hiểm thấp hơn nên pháp luật quy định mức độ tổn thương cơ thể của nạn nhân trong tội này 31% cao hơn so với mức độ tổn thương cơ thể của nạn nhân trong tội cố ý gây thương tích hoặc gây hậu quả cho sức khỏe người khác tại Điều 134 Bộ luật Hình sự 11%. Nạn nhân phải bị thương tích hoặc bị tổn thương đến sức khoẻ ở mức tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% trở lên mới bị coi là phạm tội. Nếu mức độ thương tật từ 30% trở xuống thì không phạm tội, chỉ bị xử lý hành chính, giải quyết bồi thường dân sự. Căn cứ để đánh giá mức độ thương tích là kết quả giám định pháp y theo quy định tại Thông tư số 22/2019/TT-BYT của Bộ trưởng Bộ Y tế quy định Tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể sử dụng trong giám định pháp y, giám định pháp y tâm thần. Trong một số trường hợp, hành vi gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác nhưng do vi phạm các quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính mà được các điều luật cụ thể quy định thì không phạm tội theo Điều 138 mà truy tố theo các tội tương ứng. Ví dụ, tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính Điều 139. Tội phạm hoàn thành khi hậu quả thương tật của cơ thể nạn nhân từ 31% trở lên xảy ra. Giữa hành vi của người phạm tội và hậu quả thương tật của nạn nhân là mối quan hệ nhân quả. Thương tật của nạn nhân phải xuất phát từ nguyên nhân là hành vi phạm tội của người phạm tội. Chủ thể của tội phạm Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác được thực hiện bởi bất kỳ người nào đủ 16 tuổi và có năng lực trách nhiệm hình sự. Thứ nhất, tội Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác được thực hiện bởi bất kỳ cá nhân nào. Đó có thể là công dân Việt Nam, người nước ngoài hay người không quốc tịch. Thứ hai, Theo quy định tại Khoản 2 Điều 12 người từ đủ 14 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một số điều của Bộ luật Hình sự nhưng không có quy định tội phạm tại Điều 138. Như vậy người từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi không phải chịu trách nhiệm về tội vô ý gây thương tích và gây hậu quả cho sức khỏe người phạm tội. Theo khoản 1 Điều 12, người từ đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm về mọi loại tội phạm. Như vậy người từ đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự nếu thực hiện hành vi vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác Thứ ba, người có năng lực trách nhiệm hình sự đầy đủ. Tức là người đó phải có cả năng lực nhận thức và năng lực điều khiển hành vi. Nếu người đó phạm tội trong trường hợp không có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc bị hạn chế năng lực hình sự thì có thể được loại trừ trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 21 Bộ luật Hình sự. Mặt chủ quan của tội phạm Mặt chủ quan là yếu tố đặc biệt phân biệt giữa tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác với tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Người phạm tội thực hiện tội phạm với lỗi vô ý. Theo Điều 11 Bộ luật hình sự, vô ý ở đây gồm vô ý do cẩu thả và vô ý do quá tự tin. Vô ý do cẩu thả là trường hợp do cẩu thả mà người phạm tội không thấy trước khả năng gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, mặc dù phải thấy trước hoặc có thể thấy trước. Tiêu chuẩn để xác định một người phải thấy trước và có thể thấy trước được hậu quả nguy hiểm cho xã hội là căn cứ vào hoàn cảnh cụ thể lúc xảy ra sự việc, một người bình thường cũng có thể thấy trước; ngoài ra còn phải căn cứ vào độ tuổi, trình độ nhận thức, trình độ văn hóa, tay Như vậy vô ý do cẩu thả gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là trường hợp người phạm tội vì cẩu thả nên đã không nhìn thấy trước hậu quả thương tích hoặc tổn hại sức khỏe của nạn nhân mặc dù pháp luật yêu cầu họ phải thấy trước hậu quả đó. Vô ý vì quá tự tin là trường hợp người phạm tội thấy trước được hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội, nhưng tin rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được, nhưng hậu quả đó vẫn xảy ra. Từ đây, có thể hiểu vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do quá tự tin là trường hợp người phạm tội hoàn toàn thấy trước được hậu quả thương tích hay tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân nhưng do chủ quan, quá tự tin cho rằng hậu quả không xảy ra nên vẫn thực hiện hành vi đó, kết quả hậu quả đó vẫn xảy ra. 3. Hình phạt áp dụng đối với người phạm tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác Điều 138 Bộ luật hình sự quy định 03 khung hình phạt áp dụng đối với người phạm tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác như sau - Khung hình phạt phạt cảnh cáo, phạt tiền từ đồng đến đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm áp dụng trong trường hợp người nào vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%. - Khung hình phạt phạt cải tạo không giam giữ từ 01 năm đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm áp dụng trong trường hợp phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây a Đối với 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 31% đến 60%. b Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên. Trường hợp này người phạm tội chỉ gây thương tật hoặc gây tổn hại cho sức khỏe cho 01 người nhưng mức độ thương tật lại rất cao trên 61%. Do đó, hình phạt đối với họ cũng nặng hơn. - Khung hình phạt phạt cải tạo không giam giữ từ 02 năm đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 03 năm đối với trường hợp phạm tội đối với 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên. Theo Điều 9 Bộ luật Hình sự, tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội không lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật Hình sự quy định đối với tội ấy là phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù đến 03 năm. Căn cứ quy định trên, cả 03 khung hình phạt của tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác đều thuộc nhóm tội phạm ít nghiêm trọng. 4. Vụ án thực tế xét xử về tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác Bản án số 86/2020/HSST ngày 12/11/2020 “V/v xét xử bị cáo Triệu Văn L về tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác” của Tòa án nhân dân huyện Y tỉnh Tuyên Quang.[1] Khoảng 08 giờ 30 phút ngày 08/3/2020, Triệu Văn L đi bộ lên khu vực đồi Đồng Đồi thuộc thôn 16, xã T, huyện Y để săn gà rừng. Khi đi L mang theo 01 khẩu súng kíp tự chế màu nâu dài 140cm đã nhồi sẵn đạn bi; 01 túi vải bên trong đựng thuốc súng và đạn bi mục đích để săn gà rừng. Cùng thời điểm này, ông Trần Đình Nở cùng thôn với L mang theo 01 khẩu súng kíp tự chế màu nâu đen dài 136,5cm và 01 con gà trống giống gà lai gà rừng làm mồi để đi lên đồi Đồng Đồi săn gà rừng Lvà ông N không hẹn nhau trước. Khi ông N đi đến khe đồi giáp ranh giữa đồi nhà ông Vui Tờ X với đồi nhà ông Bùi Đình C đều trú cùng thôn thì ông N đi vào bụi cỏ lau rậm rạp cách đường mòn lên đồi khoảng 20 mét, buộc gà trống vào cành cây sát mặt đất để cho gà gáy mồi gà rừng đến. Sau đó, ông N nấp vào bụi cây cách vị trí buộc gà khoảng 02 mét để quan sát. Khoảng 09 giờ 30 phút cùng ngày, Triệu Văn L đi săn đến đường mòn thì nghe thấy tiếng gà trống của ông N gáy. Tưởng nhầm là gà rừng, L liền lấy điện thoại nhãn hiệu Iphone 6 của mình ra bật tiếng gà mái rồi nằm sát bờ đường chĩa súng vào khu vực bụi lau nơi có tiếng gà gáy và ông N đang nấp L không nhìn thấy ông N do vướng bụi cây che khuất. Quan sát một lúc thấy phần cổ con gà trống của ông N, L liền nổ súng làm các viên đạn bi từ khẩu súng bắn tỏa ra trúng nhiều chỗ trên người ông N. Bị bắn bất ngờ ông N kêu lên, lúc này L biết bắn trúng người khác nên đã chạy đến đưa ông N xuống đồi đi cấp cứu. Tại Kết luận giám định số 143/2020/TgT ngày 24/6/2020 của Trung tâm pháp y tỉnh Tuyên Quang kết luận tỷ lệ tổn thương cơ thể của ông N do thương tích gây nên hiện tại là 76% Bảy mươi sáu phần trăm. Xét tính chất, mức độ thực hiện hành vi phạm tội của bị cáo, Hội đồng xét xử nhận định bị cáo Triệu Văn L đi săn gà với động cơ, mục đích săn bắt được gà rừng, bị cáo thấy trước được hậu quả của việc sử dụng súng tự chế đạn hoa cải để săn bắn là có thể gây hậu quả nguy hiểm cho người khác, nhưng do quá tự tin là không xảy ra hậu quả đó hoặc có thể khắc phục được nên bị cáo vẫn thực hiện. Như vậy trong vụ án này bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với lỗi vô ý do quá tự tin. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm sức khoẻ của người khác được pháp luật bảo vệ. Tuy nhiên sau khi phát hiện hành vi phạm tội bị cáo không bỏ trốn mà chủ động sơ cứu, gọi người hỗ trợ cùng đưa nạn nhân đi cấp cứu khắc phục giảm bớt tác hại của tội phạm. Về tội danh Căn cứ điểm b, khoản 2, Điều 138 Bộ luật Hình sự, bị cáo Triệu Văn L phạm tội “Vô ý gây thương tích”. Về hình phạt Xử phạt bị cáo Triệu Văn L 06 sáu tháng tù cho hưởng án treo, thời hạn thử thách 12 mười hai tháng. Thời hạn thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm ngày 12/11/2020. Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã T, huyện Y giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Luật Hoàng Anh [1] truy cập ngày 14/06/2021. Vô ý gây thương tích và mức phạt tiên đối với hành vi này hiện nay quy định thế nào? Vô ý gây thương tích trong trường hợp nào thì bị đi tù? Vô ý gây thương tích và mức phạt tiên đối với hành vi này? Vô ý gây thương tích trong trường hợp nào thì bị đi tù? Vô ý gây thương tích và mức phạt tiên đối với hành vi này? Căn cứ Điểm d Khoản 1 Điều 7 Nghị định 144/2021/NĐ-CP quy định như sau 1. Phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ đồng đến đồng đối với một trong những hành vi sau đây a Gây mất trật tự công cộng ở nơi biểu diễn nghệ thuật, nơi tổ chức các hoạt động văn hóa, thể dục thể thao, thương mại, trụ sở cơ quan, tổ chức, khu dân cư hoặc ở những nơi công cộng khác, trừ trường hợp quy định tại điểm a khoản 2, điểm b khoản 5 Điều này; b Thả rông động vật nuôi trong đô thị hoặc nơi công cộng; c Để vật nuôi, cây trồng hoặc các vật khác xâm lấn lòng đường, vỉa hè, vườn hoa, sân chơi, đô thị, nơi sinh hoạt chung trong khu dân cư, khu đô thị; d Vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác nhưng không bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Do đó, hành vi vô ý gây thương tích có thể bị phạt tiền đến đồng và buộc chi trả toàn bộ chi phí khám bệnh, chữa bệnh đối với hành vi trên. Vô ý gây thương tích trong trường hợp nào thì bị đi tù? Căn cứ Điều 138 Bộ luật hình sự 2015 được sửa đổi Khoản 2 Điều 2 Luật sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017 quy định tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác như sau 1. Người nào vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%, thì bị phạt cảnh cáo, phạt tiền từ đồng đến đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ từ 01 năm đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm a Đối với 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 31% đến 60%; b Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên. 3. Phạm tội đối với 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên, thì phạt cải tạo không giam giữ từ 02 năm đến 03 năm hoặc bị phạt tù từ 01 năm đến 03 năm. Như vậy, tùy từng tính chất, mức độ mà có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự và áp dụng mức phạt tù khác nhau theo quy định trên. Trân trọng! Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác thuộc nhóm tội phạm ít nghiêm trọng do khung hình phạt cao nhất của tội này là 3 năm tù. Với bề dầy kinh nghiệm trong tư vấn luật hình sự, chúng tôi sẽ trình bầy những vấn đề cơ bản nhất về tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác các cấu thành tội phạm, các khung hình phạt, các căn cứ để toà án quyết định hình phạt cụ thể với từng vụ án, các hướng luật sư có thể bào chữa cho bị cáo tội phạm này… 1. Cơ sở pháp lý quy định tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là gì ? Cơ sở pháp lý quy định trách nhiệm hình sự đối với tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là Điều 138 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. 2. Thế nào là vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác ? Một người bị coi là phạm tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác khi có các dấu hiệu sau đây. Các dấu hiệu này là các cấu thành tội phạm mà khi có đủ các cấu thành tội phạm này thì mới có thể kết luận người đó phạm tội. >>> Xem thêm Các yếu tố cấu thành tội phạm a. Chủ thể của tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác Chủ thể của tội phạm là người từ đủ 16 tuổi trở lên. b. Hành vi khi phạm tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác Hành vi khách quan Hành vi khách quan của tội phạm này là hành vi gây thương tích cho người khác. Hành vi của người phạm tội phải là hành vi trực tiếp gây ra thương tích. Lưu ý Nếu trong quá trình tham gia giao thông mà người phạm tội gây thương tích cho người khác thì nhóm thuộc tội xâm phạm an toàn giao thông. Tương tự như vậy đối với hành vi vô ý gây thương tích trong khi lao động. Hậu quả Nếu thương tích của nạn nhân được giám định là từ 31% trở lên thì mới cầu thành tội phạm nếu thương tích dưới 31% thì chưa thể truy cứu trách nhiệm hình sự đối với bị can/bị cáo. Cần lưu ý là hành vi gây thương tích của bị can/bị cáo phải là nguyên nhân trực tiếp gây ra thương tích của nạn nhân. c. Lỗi của chủ thể tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác Lỗi của chủ thể được quy định là lỗi vô ý vô ý vì quá tự tin người phạm tội nhận thức hành vi vi phạm của mình có thể gây ra hậu quả thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe nhưng đã quá tự tin là hậu quả đó sẽ không xảy ra nhưng thực tế hậu quả đó vẫn xảy ra hoặc vô ý do cẩu thả người phạm tội không thấy trước hậu quả này mặc dù phải thấy trước hậu quả đó 3. Các khung hình phạt đối với tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là gì ? Điều 138 Bộ luật hình sự 2015 quy định 3 khung hình phạt thấp nhất là phạt tiền 5 triệu đồng, cao nhất là phạt 3 năm tù. a. Hình phạt theo khoản 1 điều 138 đối với tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác Người nào vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%, thì bị phạt cảnh cáo, phạt tiền từ đồng đến đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm. b. Hình phạt theo khoản 2 điều 138 đối với tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ từ 01 năm đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm a Đối với 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 31% đến 60%; b Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên. c. Hình phạt theo khoản 3 điều 138 đối với tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác Phạm tội đối với 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên, thì bị phạt cải tạo không giam giữ từ 02 năm đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 03 năm. Các khung hình phạt tội vố ý gây thương tích. – ảnh minh hoạ Luật Thái An 4. Toà án quyết định mức hình phạt đối với người phạm tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác như thế nào? Tòa án căn cứ vào quy định tại Điều 138, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự. a. Các tình tiết tăng nặng đối với tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác Các tình tiết tăng nặng đối với tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác có thể là Phạm tội 02 lần trở lên; Tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm; >>> Xem thêm Thế nào là tái phạm, tái phạm nguy hiểm ? Có hành động xảo quyệt hoặc hung hãn nhằm trốn tránh hoặc che giấu tội phạm. và các tình tiết tăng nặng khác được quy định tại Điều 52 Bộ Luật hình sự 2015 >>> Xem thêm Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự b. Các tình tiết giảm nhẹ đối với tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác Các tình tiết giảm nhẹ được quy định Điều 51 của Bộ luật hình sự 2015. Đối với tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, các tình tiết giảm nhẹ có thể là Người phạm tội đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm; Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả; Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; Người phạm tội là phụ nữ có thai; Người phạm tội là người đủ 70 tuổi trở lên; Người phạm tội là người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng; Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình; Người phạm tội tự thú; Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; Người phạm tội tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án; Người phạm tội đã lập công chuộc tội; Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác; Người phạm tội là người có công với cách mạng hoặc là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ. Người phạm tội đầu thú >>> Xem thêm Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự Lưu ý quan trọng Khi quyết định mức hình phạt đối với bị cáo tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, Toà án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật khi người phạm tội có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự 2015. c. Biết mà che giấu tội phạm tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác thì có bị xử phạt không? Nếu một người biết mà che giấu người phạm tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác cùng dấu vết, tang vật của vụ án hoặc cản trở việc phát hiện, điều tra, xử lý người phạm tội, thì phải chịu trách nhiệm hình sự về tội che giấu tội phạm, căn cứ Điều 18 Bộ luật hình sự 2015. Cụ thể, mức hình phạt che giấu tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 05 năm. Tuy nhiên, nếu người che giấu tội phạm là ông, bà, cha, mẹ, con, cháu, anh chị em ruột, vợ hoặc chồng của người phạm tội thì không phải chịu trách nhiệm hình sự. d. Khi nào được miễn trách nhiệm hình sự đối với tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác? Nếu người thực hiện tội phạm đã tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả và được người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của người bị hại tự nguyện hòa giải và đề nghị miễn trách nhiệm hình sự, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự. đ. Khi nào được loại trừ trách nhiệm hình sự đối với tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác? Người phạm tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác không phải chịu trách nhiệm hình sự trong các trường hợp sau Sự kiện bất ngờ Người thực hiện hành vi phạm tội trong trường hợp không thể thấy trước hoặc không buộc phải thấy trước hậu quả của hành vi đó, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự, căn cứ Điều 20 Bộ luật hình sự 2015. Tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự Người thực hiện hành vi phạm tội trong khi đang mắc bệnh tâm thần, một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự, căn cứ Điều 21 Bộ luật hình sự 2015. Tình thế cấp thiết Tình thế cấp thiết là tình thế của người vì muốn tránh gây thiệt hại cho quyền, lợi ích hợp pháp của mình, của người khác hoặc lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức mà không còn cách nào khác là phải gây một thiệt hại nhỏ hơn thiệt hại cần ngăn ngừa. Nếu gây thương tích cho người khác trong tình thế cấp thiết thì không phạm tội. Tuy nhiên, nếu người đó gây ra thương tích quá yêu cầu của tình thế cấp thiết thì vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự, căn cứ Điều 23 Bộ luật hình sự 2015. e. Có thể thay thế phạt tù bằng hình phạt cải tạo không giam giữ đối với tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác không ? Do tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác thuộc loại tội ít nghiêm trọng nên Toà án có thể xem xét, cân nhắc áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ từ 06 tháng đến 03 năm, nếu người đó có nơi làm việc ổn định hoặc có nơi cư trú rõ ràng, căn cứ Điều 36 Bộ luật hình sự 2015. f. Nếu người bị hại không yêu cầu khởi tố thì sao ? Đối với tội vố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác thì cơ quan điều tra chỉ khởi tố khi có yêu cầu của bị hại hoặc người đại diện của bị hại là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc đã chết. Trường hợp người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu thì vụ án phải được đình chỉ, trừ trường hợp có căn cứ xác định người đã yêu cầu rút yêu cầu khởi tố trái với ý muốn của họ do bị ép buộc, cưỡng bức thì tuy người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án vẫn tiếp tục tiến hành tố tụng đối với vụ án. Bị hại hoặc người đại diện của bị hại đã rút yêu cầu khởi tố thì không có quyền yêu cầu lại, trừ trường hợp rút yêu cầu do bị ép buộc, cưỡng bức. g. Nếu phạm tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác và các tội khác đồng thời thì hình phạt sẽ thế nào? Nếu phạm tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác và các tội khác đồng thời thì Toà án sẽ tổng hợp các hình phạt như sau, căn cứ Điều 55 Bộ luật hình sự 2015 Đối với hình phạt chính Nếu các hình phạt đã tuyên cùng là cải tạo không giam giữ hoặc cùng là tù có thời hạn, thì các hình phạt đó được cộng lại thành hình phạt chung; hình phạt chung không được vượt quá 03 năm đối với hình phạt cải tạo không giam giữ, 30 năm đối với hình phạt tù có thời hạn; Nếu các hình phạt đã tuyên là cải tạo không giam giữ, tù có thời hạn, thì hình phạt cải tạo không giam giữ được chuyển đổi thành hình phạt tù theo tỷ lệ cứ 03 ngày cải tạo không giam giữ được chuyển đổi thành 01 ngày tù để tổng hợp thành hình phạt chung; Lưu ý quan trọng Thời gian tạm giữ, tạm giam được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt tù cứ 1 ngày tạm giữ, tạm giam bằng 01 ngày tù. 5. Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự đối với tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là bao lâu? Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự là thời hạn mà khi hết thời hạn đó thì người phạm tội không bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Đối với tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự là 5 năm. 6. Có nên mời luật sư tham gia vụ án tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác không ? Hiến pháp và Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành đều quy định về quyền được thuê luật sư bào chữa trong các vụ án hình sự “Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư bào chữa hoặc người khác bào chữa”. Khi tham gia vụ án nói chung và vụ án vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác nói riêng, luật sư sẽ Tư vấn pháp luật để giúp cho bị cáo và thân nhân của bị cáo hiểu rõ hơn về quyền và lợi ích hợp pháp, từ đó có những hành động khôn ngoan và đúng đắn Đảm bảo cho thân chủ có thể là bị cáo hoặc bị hại thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình Nếu thân chủ là bị cáo giúp khỏi bị oan sai, không chịu hình phạt quá nặng so với hành vi phạm tội, được hưởng khoan hồng của pháp luật Nếu thân chủ là bị hại giúp bảo vệ được những quyền và lợi ích hợp pháp Góp phần xác định sự thật của vụ án, bảo đảm các chứng cứ của vụ án được thu thập, kiểm tra, đánh giá một cách khách quan, chính xác Góp phần hạn chế những sai sót và/hoặc vi phạm của những người tham gia tố tụng cơ quan điều tra, kiểm sát, toà án… Vai trò của luật sư thể hiện trong tất cả các giai đoạn của vụ án gồm khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án… Chúng tôi phân tích cụ thể sau đây. Các giai đoạn vụ án tội vố ý gây thương tích. – ảnh minh hoạ Luật Thái An 7. Khi nào nên mời luật sư tham gia vụ án về tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác? Theo quy định, luật sư được tham gia trong các giai đoạn sau đây của vụ án vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác từ khi bị người tình nghi, người bị tạm giữ, tạm giam và trong các giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử. Nhưng hiệu quả nhất là luật sư bào chữa cho bị can, bị cáo ngay từ giai đoạn điều tra, tức là luật sư tham gia vụ án hình sự càng sớm càng tốt nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo, tránh nhục hình, tránh ép cung, dụ cung hoặc khai báo bất lợi cho bị can, bị cáo, tránh làm oan sai người vô tội. Theo quy định, luật sư được tham gia trong các giai đoạn sau đây của vụ án a. Luật sư tham gia giai đoạn KHỞI TỐ VỤ ÁN về tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác Đây là giai đoạn thuộc thẩm quyền của cơ quan điều tra. Trong giai đoạn khởi này, luật sư sẽ xác định xem đã đủ điều kiện để khởi tố đối với tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác hay chưa? Trên thực tế có những vụ án mà cơ quan tố tụng vội vàng khởi tố vụ án, khởi tố bị can khi mới chỉ có lời tố cáo của bị hại, thiếu những bằng chứng vật chứng về hành vi vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác chưa có vật chứng, chưa có giám định pháp y hay kết quả giám định, chưa có lời khai của người làm chứng… kiểm tra căn cứ, thẩm quyền và trình tự khởi tố vụ án xem đã tuân thủ quy định của pháp luật chưa … b. Luật sư tham gia giai đoạn ĐIỀU TRA VỤ ÁN về tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác Đây là giai đoạn thuộc thẩm quyền của cơ quan điều tra. Thời hạn điều tra vụ án về tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là không quá 02 tháng kể từ khi khởi tố vụ án cho đến khi kết thúc điều tra. Trường hợp cần gia hạn điều tra thì có thể gia hạn một lần không quá 02 tháng. Trong giai đoạn điều tra, bị can có thể bị tam giam để phục vụ công tác điều tra. Thời gian tạm giam bị can tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là không quá 02 tháng. Thời hạn tạm giam có thể được gia hạn một lần không quá 01 tháng. Trong giai đoạn điều tra, luật sư sẽ thu thập chứng cứ để làm sáng tỏ những chi tiết có lợi cho thân chủ trong vụ án tham gia hỏi cung bị can, nếu có căn cứ cho rằng bị can bị ép cung, bị mớm cung thì luật sư sẽ can thiệp kịp thời kiến nghị với cơ quan điều tra để thay đổi biện pháp ngăn chặn chuyển từ tạm giam sang tại bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm, cấm đi khỏi nơi cư trú, tạm hoãn xuất cảnh…, triệu tập người làm chứng để lấy lời khai, thu thập chứng cứ, khắc phục hậu quả thí dụ như tạo điều kiện để bị cáo bán tài sản để trả cho người bi hại c. Luật sư tham gia giai đoạn TRUY TỐ VỤ ÁN về tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác Đây là giai đoạn thuộc thẩm quyền của viện kiểm sát. Lúc này cơ quan điều tra đã hoàn thành việc điều tra và chuyển hồ sơ sang viện kiểm sát. Đối với tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, Viện kiểm sát sẽ có quyết định truy tố trước Toà án, hoặc trả hồ để điều tra bổ sung, hoặc đình chỉ/tạm đình chỉ vụ án, bị can, trong thời hạn 20 ngày kể từ ngày nhận hồ sơ vụ án và bản kết luận điều tra. Trường hợp cần thiết, Viện trưởng Viện kiểm sát có thể gia hạn thời hạn quyết định việc truy tố nhưng không quá 10 ngày. Trong giai đoạn truy tố, luật sư sẽ nghiên cứu hồ sơ vụ án và đưa ra đề xuất, kiến nghị với viện kiểm sát nhằm mục đích bảo vệ quyền lợi cho thân chủ của mình. Các kiến nghị có thể là kiến nghị giảm nhẹ trách nhiệm hình sự chuyển sang tội danh nhẹ hơn hoặc sang khung hình phạt nhẹ hơn, áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự kiến nghị trả hồ sơ điều tra bổ sung kiến nghị để đình chỉ vụ án d. Luật sư tham gia giai đoạn XÉT XỬ VỤ ÁN về tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác Đây là khi viện kiểm sát ra quyết định truy tố vụ án, truy tố bị can và chuyển hồ sơ sang toà án để xét xử. Đối với vụ án về tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, Toà án sẽ ra quyết định đưa vụ án ra xét xử, trả hồ sơ để điều tra bổ sung hoặc tạm đình chỉ / đình chỉ vụ án, trong thời hạn 30 ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng kể từ ngày thụ lý vụ án. Đối với vụ án phức tạp, Chánh án Tòa án có thể quyết định gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử nhưng không quá 15 ngày. Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử, Tòa án sẽ mở phiên tòa; trường hợp vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan thì Tòa án có thể mở phiên tòa trong thời hạn 30 ngày. Trong giai đoạn này, luật sư sẽ Nghiên cứu hồ sơ, trong quá trình này luật sư sẽ định hình hướng bảo chữa/bảo vệ cho thân chủ Trao đổi với thân chủ để thống nhất hướng bào chữa, bảo vệ Trao đổi với cơ quan tiến hành tố tụng về các vấn đề như yêu cầu thu thập thêm bằng chứng, xác định tội danh vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, đảm bảo sự có mặt của các nhân chứng tại phiên toà … Chuẩn bị kế hoạch hỏi, luận cứ để tranh luận tại phiên toà Phiên toà xét xử sơ thẩm là nơi luật sư thể hiện thành quả lao động của mình thể hiện qua phần hỏi để làm sáng tỏ tình tiết vụ án và tranh luận đưa ra quan điểm bào chữa hoặc bảo vệ cho thân chủ. Nội dung các phần này sẽ bám chặt vào định hướng bào chữa mà luật sư đã thống nhất với thân chủ, cụ thể sẽ trình bầy trong phần tiếp theo. 7. Hướng bào chữa tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác như thế nào? Khi có căn cứ, luật sư có thể bào chữa cho bị cáo tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác theo một trong ba hướng sau đây Các hướng bào chữa tội vố ý gây thương tích. – ảnh minh hoạ Luật Thái An a. Bào chữa cho bị cáo tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác theo hướng KHÔNG PHẠM TỘI Khi bào chữa theo hướng này thì luật sư sẽ khai thác các tình tiết vụ án, lời khai của các đương sự và người làm chứng mà có lợi cho thân chủ mình, một cách triệt để Không đủ yếu tố cấu thành tội phạm Luật sư có thể chứng minh chưa đủ yếu tố cấu thành tội phạm như Chủ thể Chủ thể chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự dưới 16 tuổi trong trường hợp bị cáo rất trẻ và giấy khai sinh có sai sót … Hành vi Nạn nhân bị thương nhưng không phải do hành vi của bị cáo Hành vi của bị cáo không phải là nguyên nhân trực tiếp làm cho nạn nhân bị thương tích tới 31 % Nạn nhân đã bị thương từ trước khi bị đánh Lời khai của người làm chứng, bị hại, của các bị cáo khác, hồ sơ vụ án không đủ để chứng minh hành vi phạm tội của bị cáo. Hậu quả Việc giám định pháp y không được thực hiện theo quy định hiện hành thí dụ không tuân thủ Thông tư liên tịch số 28/2013/TTLT-BYT-BLĐTBXH, quy trình lấy mẫu giám định không phù hợp, trình độ chuyên môn hoặc tính hách quan của chủ thể thực hiện giám định chưa phù hợp, tính khoa học của phương pháp giám định không đảm bảo … Có thuộc trường hợp được loại trừ trách nhiệm hình sự hay không ? Nếu có căn cứ, luật sư có thể khai thác các tình tiết để đề nghị Hội đồng xét xử miễn trách nhiệm hình sự cho bị cáo trong các trường hợp đã trình bầy ở phần trên các trường hợp được loại trừ trách nhiệm hình sự. Bị cáo có bằng chứng ngoại phạm Nếu có bằng chứng về việc bị cáo đã không có mặt tại hiện trường khi xẩy ra vụ án thì luật sư thuyết phục Hội đồng xét xử xét xử cho bị cáo không phạm tội. b. Bào chữa cho bị cáo tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác theo hướng GIẢM NHẸ Khi có căn cứ, luật sư có thể bào chữa cho bị cáo theo hướng giảm nhẹ về khung hình phạt đối với tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, cụ thể như sau Về tình tiết định khung trong điều 138 Luật sư khai thác, phân tích các tình tiết để chứng minh bị cáo không phạm tội với những tình tiết định khung, để đề nghị chuyển sang khung hình phạt nhẹ hơn. Thí dụ Việc giám định pháp y không được thực hiện theo quy định hiện hành, quy trình lấy mẫu giám định không phù hợp, trình độ chuyên môn hoặc tính hách quan của chủ thể thực hiện giám định chưa phù hợp, tính khoa học của phương pháp giám định không đảm bảo. Trên thực tế, mức tỷ lệ thương tật là dưới 31% nếu bị cáo bị truy tố theo điểm a khoản 2 điều 138 hoặc dưới 61% nếu bị cáo bị truy tố theo điểm b khoản 2 hoặc khoản 3 điều 138 Về nhân thân của người phạm tội Luật sư phân tích để cho thấy bị cáo chưa có tiền án tiền sự Luật sư phân tích các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự Người phạm tội đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm; Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả người phạm tội tự nguyện chi trả chi phí khám chữa bệnh cho nạn nhân, thăm hỏi gia đình nạn nhân, hỗ trợ vật chất cho người thân của nạn nhân Phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết; Phạm tội trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội; Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; Người phạm tội là phụ nữ có thai; Người phạm tội là người đủ 70 tuổi trở lên; Người phạm tội là người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng; Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình; Người phạm tội tự thú; Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; Người phạm tội tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án; Người phạm tội đã lập công chuộc tội; Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác; Người phạm tội là người có công với cách mạng hoặc là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ. Người phạm tội đầu thú c. Bào chữa cho bị cáo tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác theo hướng ĐIỀU TRA BỔ SUNG Căn cứ Điều 245 và Điều 280 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Luật sư có thể đề xuất Hội đồng xét xử trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong các trường hợp sau Trả hồ sơ để điều tra bổ sung khi thiếu chứng cứ dùng để chứng minh một trong những vấn đề quy định tại Điều 85 của Bộ luật này mà không thể bổ sung tại phiên tòa được Chứng cứ để chứng minh có hành vi phạm tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác xảy ra hay không? Chứng cứ để chứng minh thời gian, địa điểm và những tình tiết khác của hành vi phạm tội Chứng cứ để chứng minh ai là người thực hiện hành vi phạm tội Chứng cứ để chứng minh tình tiết tăng nặng theo cáo trạng của Viện kiểm sát là gì? … Trả hồ sơ để điều tra bổ sung khi việc khởi tố, điều tra, truy tố vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng Lệnh, quyết định của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra mà theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự phải có sự phê chuẩn của Viện kiểm sát, nhưng không có phê chuẩn của Viện kiểm sát hoặc việc ký lệnh, quyết định tố tụng không đúng thẩm quyền; Xác định không đúng tư cách tham gia tố tụng của người tham gia tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử dẫn đến xâm hại nghiêm trọng quyền và lợi ích hợp pháp của họ; Khởi tố vụ án hình sự nhưng không có yêu cầu của bị hại hoặc của người đại diện của bị hại theo quy định tại khoản 1 Điều 155 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nhập vụ án hoặc tách vụ án không đúng quy định tại Điều 170 hoặc Điều 242 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Không cấp, giao, chuyển, gửi, niêm yết hoặc thông báo văn bản tố tụng gồm lệnh, quyết định, yêu cầu, kết luận điều tra, bản cáo trạng, bản án cho người bị buộc tội và những người tham gia tố tụng khác theo đúng quy định của pháp luật xâm hại nghiêm trọng đến quyền bào chữa, quyền, lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội và những người tham gia tố tụng khác; Không có người phiên dịch, người dịch thuật cho người tham gia tố tụng trong trường hợp họ không sử dụng được tiếng Việt hoặc tài liệu tố tụng không thể hiện bằng tiếng Việt; họ là người câm, người điếc, người mù theo quy định tại Điều 70 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Việc điều tra, thu thập chứng cứ để chứng minh đối với vụ án không đúng trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự nên không có giá trị chứng minh trong vụ án hình sự; Biên bản về hoạt động điều tra, thu thập, nhận được tài liệu liên quan đến vụ án mà không chuyển cho Viện kiểm sát theo đúng quy định tại khoản 5 Điều 88 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Chứng cứ để chứng minh đối với vụ án đã được thu thập trong quá trình điều tra, truy tố nhưng không đưa vào hồ sơ vụ án hoặc bị sửa chữa, thêm bớt dẫn đến sai lệch hồ sơ vụ án; Việc điều tra, truy tố không đúng thẩm quyền theo quy định của pháp luật; Có căn cứ để xác định có việc bức cung, nhục hình trong quá trình tiến hành tố tụng làm cho lời khai của bị can không đúng sự thật; Khiếu nại, tố cáo của bị can, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không được giải quyết theo đúng quy định của pháp luật xâm hại nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp pháp của họ; Những trường hợp khác phải ghi rõ lý do trong quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Lưu ý Viện kiểm sát, Tòa án không trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong trường hợp có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, nhưng không xâm hại nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng. Trả hồ sơ để điều tra bổ sung khi có căn cứ cho rằng cơ quan tiến hành tố tụng đã cản trở, đưa ra những yêu vô lý từ chối đăng ký bào chữa, không tạo điều kiện cho thân nhân và người bào chữa được gặp người bị buộc tội khi người bị buộc tội từ chối người bào chữa. Lưu ý Cần lưu ý rằng việc bào chữa theo hướng này sẽ kéo dài thời giai xét xử vụ án. >>> Xem thêm Hưỡng bào chữa tội xâm phạm sức khoẻ, tính mạng, danh dự, nhân phẩm con người 8. Dịch vụ thuê luật sư bào chữa tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác của Luật Thái An Sử dụng dịch vụ luật sư tư vấn và tham gia tố tụng luật sư bào chữa là sự lựa chọn rất khôn ngoan. Với bề dầy kinh nghiệm tham gia các vụ án hình sự cùng sự tận tâm, tuân thủ đạo đức nghề nghiệp, các luật sư Công ty Luật Thái An sẽ tham gia tố tụng với tư cách luật sư bào chữa cho bị can, bị cáo hoặc luật sư bảo vệ người bị hại trong các vụ án hình sự. Chúng tôi sẽ luôn nỗ lực tối để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của thân chủ khách hàng với mức thù lao hợp lý. >>> Xem thêm Dịch vụ luật sư bào chữa Giới thiệu tác giả Bài viết mới nhất Tiến sỹ luật học, Luật sư Nguyễn Văn Thanh là thành viên Đoàn Luật sư TP. Hà Nội và Liên đoàn Luật sư Việt Nam. Lĩnh vực hành nghề chính * Tư vấn pháp luật Doanh nghiệp, Đầu tư, Xây dựng, Thương mại, Lao động, Dân sự, Hình sự, Đất đai, Hôn nhân và gia đình* Tố tụng và giải quyết tranh chấp Kinh doanh thương mại, Đầu tư, Xây dựng, Lao động, Bảo hiểm, Dân sự, Hình sự, Hành chính, Đất đai, Hôn nhân và gia đình

vô ý gây thương tích